rối loạn cơ thể

👉Hồng sâm khô là một trong các vị thuốc quý của Đông Y với rất nhiều công dụng bổ ích cho cơ thể như: Bồi bổ nguyên khí, nâng cao sức đề kháng cho cơ thể. Hỗ trợ điều trị ung thư: phòng chống ung thư, ức chế sự phát triển của khối u, giảm tác dụng phụ trong điều trị hóa trị, xạ trị đối với Rối loạn giao tiếp có thể ảnh hưởng đến cách một người nhận, gửi, xử lý và hiểu các khái niệm. Nguy cơ bị rối loạn giao tiếp. Rối loạn giao tiếp là phổ biến ở trẻ em. Theo Viện khiếm thính và các bệnh truyền thông khác (NIDCD), 8 đến 9 phần trăm trẻ nhỏ bị Cảnh báo: Nguy cơ rối loạn tâm thần gia tăng trong đại dịch COVID-19. 03/06/2021 15:45 (GMT+7) Trong cuộc sống hiện tại đã tiềm ẩn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến các bệnh lý tâm thần. Mắc COVID-19 thể càng nặng các rối loạn tâm thần càng tăng. Một số trường hợp mắc Về vấn đề rối loạn giấc ngủ, các nhà nghiên cứu cho rằng một trong những nguyên nhân gây nên điều này là do sự nhạy cảm với tín hiệu sáng - tối. Nghiên cứu cho thấy nhịp sinh học tuần hoàn dễ dàng bị gián đoạn khi tiếp xúc với ánh sáng vào ban đêm. Chưa dừng lại ở đó, mức độ gián đoạn còn phụ thuộc và giới tính và có thể thay đổi theo độ tuổi. VOV.VN - WHO ước tính, rối loạn mỡ máu có liên quan đến 48% trường hợp tai biến mạch máu não, 56% ca thiếu máu cơ tim trên toàn thế giới. Riêng tại Việt Nam, có 200.000 người Việt đột quỵ mỗi năm do rối loạn mỡ máu. Conseil Premier Message Site De Rencontre. Rối loạn nội tiết có thể là kết quả của Rối loạn chức năng bắt nguồn từ chính tuyến nội tiết ngoại vi rối loạn sơ cấpSự kém kích thích của tuyến yên rối loạn thứ phát cho dù do rối loạn chức năng nội tại của tuyến yên hoặc do vùng dưới đồi bị kích thích kém tuyến yênSự kích thích quá mức của tuyến yên rối loạn thứ phát cho dù là do rối loạn chức năng tuyến yên nội tại hoặc sự kích thích quá mức của tuyến yên bởi vùng dưới đồiHiếm khi, do phản ứng bất thường của mô đối với các hormone thường là giảm chức năng. Các rối loạn có thể dẫn đến sự sản sinh quá mức hormone tăng chức năng hoặc không đủ hormone giảm chức năng. Rối loạn chức năng của các tuyến nội tiết có thể là do tuyến yên bị kích thích quá mức cho dù là do rối loạn chức năng nội tại của tuyến yên hay do vùng dưới đồi bị kích thích tuyến yên. Cường năng của tuyến nội tiết có thể do tuyến yên bị kích thích quá mức nhưng phổ biến nhất là do tuyến nội tiết đó quá sản hoặc tân sinh. Trong một số trường hợp, các loại ung thư từ các mô khác có thể sản sinh ra hormone sản xuất hormone ngoại bào. Sự dư thừa hormone cũng có thể do sử dụng hormone ngoại sinh. Trong một số trường hợp, bệnh nhân dùng các sản phẩm không kê đơn có chứa hormone và có thể không biết hoặc không nói với thầy thuốc. Khi một hormone nội tiết ngoại vi sản xuất ra một enzym lỗi có thể dẫn đến việc sản xuất quá nhiều các hormone ở gần điểm gián đoạn. Cuối cùng, sự sản xuất quá nhiều hormone có thể xảy ra như một đáp ứng đối với tình trạng bệnh. Sự suy giảm chức năng của một tuyến nội tiết có thể do tuyến yên bị kích thích dưới mức cho dù là do rối loạn chức năng nội tại của tuyến yên hay do vùng dưới đồi bị kích thích kém tuyến yên. Suy giảm chức năng xuất phát từ tuyến ngoại biên có thể là do các rối loạn bẩm sinh hoặc mắc phải bao gồm bệnh tự miễn, khối u, nhiễm trùng, bệnh mạch máu, và ngộ độc. Một số hormone cần chuyển đổi sang dạng hoạt hóa sau khi bài tiết ra từ tuyến nội tiết ngoại vi. Một số rối loạn có thể khóa bước này ví dụ, bệnh thận có thể ức chế việc sản sinh ra dạng vitamin D hoạt động. Các kháng thể đối với hormone lưu hành hoặc thụ thể của nó có thể cản trở khả năng của hormone gắn kết với thụ thể của hoặc thuốc có thể làm tăng tỷ lệ giải phóng hormon. Các chất lưu hành cũng có thể cản trở các chức năng của hormon. Những bất thường của thụ thể hoặc ở những nơi khác trong mô ngoại vi cũng có thể gây giảm chức năng của tuyến nội tiết. Bởi vì các triệu chứng rối loạn nội tiết có thể bắt đầu một cách lặng lẽ và không đặc hiệu, việc phát hiện triệu chứng lâm sàng thường muộn sau nhiều tháng hoặc nhiều năm. Vì lý do này, chẩn đoán sinh hóa thường rất cần thiết; nó thường đòi hỏi phải đo nồng độ trong máu của hormone các nội tiết ngoại vi, hormone tuyến yên, hoặc cả hai. Bởi vì hầu hết các hormone có nhịp sinh học, các phép đo cần được thực hiện vào một thời gian nhất định trong ngày. Hormone thay đổi trong thời gian ngắn ví dụ, hormone LH đòi hỏi phải có được 3 hoặc 4 giá trị trên 1 hoặc 2 h hoặc sử dụng một mẫu máu trộn lẫn. Hormone thay đổi theo từng tuần ví dụ estrogen đòi hỏi lấy các giá trị riêng biệt cách nhau 1 tuần. Hormone tự do hoặc có hoạt tính sinh học ví dụ, hormone không bị gắn với một chất nào đó liên kết với nó thường được cho là dạng hoạt động. Hormone tự do hoặc có hoạt tính sinh học được đo bằng cách sử dụng lọc máu cân bằng, siêu lọc, hoặc phương pháp chiết dung môi để tách hormone tự do và albumin gắn hormone khỏi liên kết với globulin. Những phương pháp này có thể tốn kém và mất thời gian. Các xét nghiệm hormone tự do có hoạt tính tương đồng và cạnh tranh, mặc dù thường được sử dụng trong thương mại, nhưng không phải lúc nào cũng chính xác và không nên sử dụng. Các nồng độ hormone tự do có thể tính gián tiếp bằng cách đo nồng độ của protein liên kết và sử dụng chúng để tính tổng lượng hormone trong huyết thanh. Tuy nhiên, các phương pháp gián tiếp sẽ không chính xác nếu khả năng liên kết với protein của hormone đã bị thay đổi ví dụ, do rối loạn.Trong một số trường hợp, các ước tính gián tiếp khác được sử dụng. Ví dụ, vì hormone tăng trưởng GH có thời gian bán thải trong huyết thanh ngắn và rất khó phát hiện, yếu tố tăng trưởng 1 giống insulinIGF-1, được sản xuất để đáp ứng với GH, thường được đo như một chỉ số hoạt động của GH. Nồng độ hormone có hoạt tính sinh học thường là đo trong máu. Trong nhiều trường hợp, xét nghiệm động học là cần thiết. Vì vậy, trong trường hợp các cơ quan giảm chức năng, có thể cần làm test kích thích ví dụ, Kích thích ACTH Test kích thích Bệnh Addison tiến triển thầm lặng, chức năng vỏ thượng thận ngày một suy giảm. Nó gây ra các triệu chứng khác nhau, bao gồm hạ huyết áp, sạm da, thậm chí cơn suy thượng thận cấp với biến cố... đọc thêm . Trong trường hợp cường chức năng, cần làm test ức chế ví dụ, ức chế dexamethasone đàn áp Test ức chế bằng Dexamethasone Hội chứng Cushing gồm một nhóm các triệu chứng lâm sàng gây ra bởi mức độ cao mạn tính của cortisol hoặc corticosteroid liên quan. Bệnh Cushing là hội chứng Cushing là kết quả của việc sản xuất... đọc thêm . Thay thế hormone thiếuKiềm chế sản xuất hormone quá mứcLiệu pháp phóng xạ, phẫu thuật, và các loại thuốc ức chế sản sinh hormone được sử dụng để điều trị cường chức năng tuyến nội tiết. Trong một số trường hợp, thuốc đối kháng thụ thể được sử dụng ví dụ pegvisomant là chất đối kháng thụ thể hormone tăng trưởng được sử dụng ở bệnh nhân u tuyến yên tiết hormone tăng trưởng. Hormone thay đổi dần theo số tuổi. Hầu hết nồng độ các hormone số mức độ hormone vẫn ổn số mức hormone tăng thay đổi liên quan đến lão hóa tương tự như ở những bệnh nhân bị thiếu hụt hormone. Một số bằng chứng cho thấy thay thế một số hormone ở người cao tuổi có thể cải thiện các kết cục chức năng ví dụ sức mạnh cơ bắp, mật độ khoáng xương nhưng vẫn chưa có bằng chứng về những ảnh hưởng đối với tử vong. Trong một số trường hợp, thay thế nội tiết tố có thể có hại, vì làm tăng nguy cơ ung thư vú khi mãn kinh oestrogen và progesterone liệu pháp. Một lý thuyết cạnh tranh là sự suy giảm mức độ hormone liên quan đến tuổi tác tượng trưng cho sự giảm chuyển hóa tế bào. Khái niệm này dựa trên tỷ lệ lý thuyết sống của lão hóa tức là nhanh hơn tốc độ trao đổi chất của cơ thể, nhanh hơn nó chết. Khái niệm này dường như được hỗ trợ bởi các nghiên cứu về tác động của chế độ ăn kiêng. Hạn chế làm giảm mức độ kích thích tố kích thích sự trao đổi chất, do đó làm chậm tốc độ trao đổi chất; hạn chế cũng kéo dài cuộc sống ở loài gặm nhấm. Mức độ hormone giảm khi lão hóa bao gồm Dehydroepiandrosterone DHEA và DHEA sulfateEstrogenHormone tăng trưởng và yếu tố tăng trưởng giống insulin 1MelatoninPregnenoloneTestosteroneDehydroepiandrosterone DHEA và hàm lượng sulfate giảm đáng kể theo độ tuổi. Mặc dù người ta nghĩ rằng bổ sung DHEA ở người cao tuổi là tốt, hầu hết các thử nghiệm có đối chứng không cho thấy bất kỳ lợi ích lớn là tiền thân của tất cả các hormone steroid được biết đến. Nồng độ chất này cũng suy giảm theo tuổi giống DHEA. Các nghiên cứu trong những năm 1940 cho thấy sự an toàn và lợi ích của nó ở những người bị viêm khớp, nhưng các nghiên cứu bổ sung cho thấy nó không có tác dụng có lợi nào lên bộ nhớ và sức mạnh cơ độ hormone tăng trưởng GH và hormone nội tiết ngoại vi yếu tố tăng trưởng giống insulin 1 [IGF-1] giảm theo độ tuổi. Thay thế GH ở người lớn tuổi đôi khi tăng khối lượng cơ nhưng không tăng sức mạnh cơ có thể gặp ở người suy dinh dưỡng. Tác dụng phụ ví dụ hội chứng ống cổ tay, chứng đau khớp, giữ nước rất phổ biến. GH có thể có vai trò trong điều trị ngắn hạn đối với một số bệnh nhân lớn tuổi bị suy dinh dưỡng, nhưng ở những bệnh nhân suy dinh dưỡng nặng, GH làm tăng tử vong. Chất kích thích tiết kích thích sản xuất GH sinh lý có thể cải thiện lợi ích và giảm nguy độ melatonin, một hormone được sản xuất bởi tuyến tùng, cũng giảm theo tuổi. Sự suy giảm này đóng một vai trò quan trọng trong việc mất nhịp sinh học theo tuổi. Mức độ hormone duy trì ổn định khi một người già đi bao gồm Hormone kích thích vỏ thượng thận cơ bảnCortisol cơ bản1,25-DihydroxycholecalciferolEstradiol ở nam giớiInsulin đôi khi tăng lênHormon kích thích tuyến giáp TSHThyroxine Hormone tăng liên quan đến lão hóa có liên quan đến khiếm khuyết thụ thể hoặc khiếm khuyết thụ thể sau, dẫn đến suy giảm chức năng. Các kích thích tố này bao gồm Hormone vỏ thượng thận ACTH – tăng phản ứng với corticotropin-làm giảm hormoneActivin ở nam giớiYếu tố lợi tiểu natri nhĩCholecystokininHormone kích thích nang trứngGonadotropins ở phụ nữ NorepinephrineHormone cận giápGlobulin liên kết hormone giới tínhPeptide vận mạch ở ruộtVasopressin cũng mất nhịp sinh học Nguồn chủ đề Cơ thể hóa là biểu hiện của hiện tượng tâm thần như các triệu chứng thể chất cơ thể. Những rối loạn được đặc trưng bởi sự cơ thể hóa từ những người mà ở đó các triệu chứng phát triển một cách vô thức và phi lý chí đến những người có triệu chứng phát triển một cách có ý thức và có lý chí. Sự liên tục này bao gồm Rối loạn triệu chứng cơ thể và các rối loạn liên quanCác rối loạn giả bệnhBịa bệnh không phải là rối loạn tâm thầnTrong tất cả các rối loạn, bệnh nhân tập trung nổi bật vào mối quan tâm về mặt cơ thể. Do đó, cơ thể hóa thường dẫn bệnh nhân đến khám và điều trị nội khoa hơn là chăm sóc tâm loạn triệu chứng cơ thể và các rối loạn liên quan được đặc trưng bởi các triệu chứng cơ thể dai dẳng có liên quan đến những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi quá mức hoặc không thích ứng trong việc đáp ứng với những triệu chứng này và các mối quan tâm liên quan đến sức khỏe. Những rối loạn này gây phiền toái và thường làm suy giảm đến các khía cạnh xã hội, nghề nghiệp, học tập hoặc các khía cạnh chức năng khác. Chúng bao gồm Rối loạn dạng cơ thể và rối loạn lo âu về bệnh tật là phổ biến rối loạn giả bệnh liên quan đến việc làm giả các triệu chứng thể chất hoặc tâm lý và/hoặc dấu hiệu khi không có các động cơ rõ ràng từ bên ngoài ví dụ, thêm thời gian nghỉ làm, trợ cấp tàn tật, hoặc thuốc phiện, tránh nghĩa vụ quân sự hoặc truy tố hình sự. Thuật ngữ hội chứng Munchausen không còn được sử dụng cho các rối loạn giả bệnh nữa. Bịa bệnh không phải là rối loạn giả bệnh như có thể bị nhầm lẫn với tình trạng này, là giả vờ có chủ ý các triệu chứng thể chất hoặc tâm lý do một động cơ bên ngoài thúc đẩy, là đặc điểm phân biệt giữa bịa bệnh và các rối loạn giả loạn triệu chứng thần kinh chức năng bao gồm các triệu chứng hoặc thiếu hụt thần kinh thường liên quan đến chức năng vận động hoặc chức năng cảm giác phát sinh một cách vô thức và vô điều kiện và không tương thích với các cơ chế sinh lý bệnh hoặc con đường giải phẫu đã biết. Rối loạn lo âu về bệnh tật là nỗi lo và sợ về việc có hoặc mắc phải một rối loạn nghiêm trọng. Các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến các bệnh trạng khác được chẩn đoán khi các yếu tố tâm lý hoặc hành vi tác động xấu đến quá trình hoặc kết quả của một tình trạng sức khỏe hiện loạn triệu chứng cơ thể được đặc trưng bởi nhiều phàn nàn về thể chất dai dẳng không giả mạo và có liên quan đến những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi quá mức và không phù hợp liên quan đến những triệu chứng đó. Xem bảng Thang điểm triệu chứng cơ thể 8 , được sử dụng để xác định tần suất bệnh nhân bị làm phiền bởi 8 triệu chứng đã chọn trong 7 ngày trước đó. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền. Rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại là một dạng của rối loạn phân ly mà có những cảm giác kéo dài dai dẳng hoặc tái diễn việc cảm giác bị tách rời bị phân ly khỏi cơ thể hoặc các quá trình tâm thần, thường là cảm giác như một người quan sát bên ngoài về cuộc sống của mình giải thể nhân cách, hoặc bị tách rời khỏi những cái xung quanh mình tri giác sai thực tại. Rối loạn này thường được khởi phát bởi căng thẳng nặng. Chẩn đoán dựa trên các triệu chứng sau khi các nguyên nhân khả thi khác được loại trừ. Việc điều trị bao gồm trị liệu tâm lý cộng với liệu pháp điều trị bằng thuốc cho bất kỳ chứng trầm cảm và/hoặc lo âu kèm 50% dân số nói chung đã từng có ít nhất một lần trải nghiệm thoáng qua về giải thể nhân cách hoặc tri giác sai thực tại trong cuộc đời của họ. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 2% số người trong số đó đáp ứng các tiêu chí có rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại có thể xảy ra tương đồng giữa nam và nữ. Độ tuổi khởi phát trung bình là 16 năm. Rối loạn này có thể bắt đầu trong giai đoạn sớm hoặc giữa thời thơ ấu; chỉ có 5% trường hợp bắt đầu sau tuổi 25, và rối loạn hiếm khi bắt đầu sau tuổi 40. Những người có rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại thường trải qua các căng thẳng nghiêm trọng, ví dụ như sau Bị lạm dụng tình cảm hoặc bị bỏ rơi trong thời thơ ấu một nguyên nhân phổ biến nhấtBị lạm dụng thể chấtChứng kiến bạo lực trong gia đìnhCó bố mẹ bị bệnh lý gây suy giảm chức năng hoặc bệnh lý tâm thần nặng nềCó một người trong gia đình hoặc người bạn thân chết bất ngờ Các giai đoạn có thể được khởi phát bởi các căng thẳng giữa các cá nhân, tài chính hoặc nghề nghiệp; trầm cảm Các rối loạn trầm cảm Các rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi buồn trầm trọng hoặc dai dẳng đủ để ảnh hưởng vào hoạt động chức năng và thường là do giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong các hoạt động. Nguyên nhân... đọc thêm ; lo âu Tổng quan các rối loạn lo âu Mỗi người thường trải qua nỗi sợ hãi và lo âu. Sợ hãi là phản ứng cảm xúc, thể chất và hành vi đối với một mối đe dọa có thể nhận biết được diễn ra tức thì từ bên ngoài ví dụ như kẻ đột nhập... đọc thêm ; hoặc sử dụng các loại chất bất hợp pháp Tổng quan về việc sử dụng chất kích thích Rối loạn liên quan đến sử dụng chất kích thích liên quan đến các loại chất hoạt hóa trực tiếp vào hệ thống tưởng thưởng của bộ não. Việc kích hoạt hệ thống phần thưởng thường gây ra cảm giác... đọc thêm , đặc biệt là cần sa Cần sa Cannabis Cần sa là chất gây hưng cảm có thể gây an thần hoặc bồn chồn ở một số người. Lâm sàng là phụ thuộc tâm lý xảy ra khi sử dụng lâu dài, nhưng rất ít sự phụ thuộc về thể chất. Hội chứng cai gây... đọc thêm , ketamin Ketamine và Phencyclidine PCP Ketamine và phencyclidine là các thuốc gây mê có thể gây ngộ độc, đôi khi có sự nhầm lẫn hoặc trạng thái cuộn cảm. Quá liều có thể gây hôn mê, và hiếm khi tử vong. Ketamine và phencyclidine... đọc thêm , hoặc các chất gây ảo giác Thuốc gây ảo giác Thuốc gây ảo giác là một nhóm thuốc đa dạng có thể gây ra các phản ứng không lường trước được, phản ứng đặc ứng. Ngộ độc thường gây ảo giác, kèm theo thay đổi nhận thức, kém phán đoán, sự liên... đọc thêm . Triệu chứng và Dấu hiệu Các triệu chứng của rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại thường mang tính chất từng giai đoạn và dao động về cường độ. Các giai đoạn có thể kéo dài chỉ vài giờ hoặc vài ngày hoặc vài tuần, vài tháng, hoặc đôi khi vài năm. Nhưng ở một số bệnh nhân, các triệu chứng liên tục xuất hiện ở cường độ không đổi trong nhiều năm hoặc nhiều thập chứng giải thể nhân cách bao gồm Cảm giác tách ra khỏi cơ thể, tâm trí, cảm xúc và/hoặc cảm giác của một ngườiBệnh nhân cảm thấy như một người quan sát bên ngoài cuộc sống của họ. Nhiều bệnh nhân cũng nói rằng họ cảm thấy không thực hoặc giống như một con robot hoặc tự động không kiểm soát những gì họ làm hoặc nói. Họ có thể cảm thấy tình cảm và thể chất tê liệt hoặc cảm thấy tách ra, với ít cảm xúc. Một số bệnh nhân không thể nhận ra hoặc mô tả cảm xúc của họ chứng mù cảm xúc. Họ thường cảm thấy bị ngắt kết nối khỏi ký ức và không thể nhớ rõ triệu chứng tri giác sai thực tại bao gồm Cảm giác bị tách rời khỏi môi trường xung quanh ví dụ, người, đồ vật, mọi thứ, có vẻ như không thực tếBệnh nhân có thể cảm thấy như thể đang ở trong một giấc mơ hoặc sương mù hoặc như thể một bức tường bằng kính hoặc tấm màn chia tách họ ra khỏi môi trường xung quanh. Thế giới dường như vô hồn, không màu hoặc giả tạo. Sự méo mó chủ quan về thế giới là phổ biến. Ví dụ, vật thể có thể xuất hiện mờ hoặc không rõ ràng như thường lệ; chúng dường như bằng phẳng hoặc nhỏ hơn hoặc lớn hơn bản thân chúng. Âm thanh có vẻ như to hơn hoặc nhẹ nhàng hơn; thời gian dường như trôi quá chậm hoặc quá chứng hầu như luôn gây khó chịu, và khi nặng nề, không thể dung nạp được. Lo âu và trầm cảm thường phổ biến. Một số bệnh nhân lo ngại rằng họ có tổn thương não không hồi phục hoặc họ đang dần trở nên điên loạn. Những người khác thì ám ảnh về việc liệu họ có thực sự tồn tại hoặc liên tục kiểm tra để xác định liệu tri giác của họ là có thật hay không. Tuy nhiên, bệnh nhân luôn giữ được nhận thức rằng những trải nghiệm không thực tế của họ là không có thực mà chỉ là cách mà họ cảm thấy nghĩa là họ vẫn còn nguyên vẹn khả năng kiểm tra thực tế. Sự nhận biết này giúp phân biệt rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại với các rối loạn loạn thần, trong đó sự thấu hiểu bên trong là luôn thiếu. Tiêu chuẩn lâm sàngChẩn đoán rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại là lâm sàng, dựa trên sự hiện diện của các tiêu chuẩn sau trong Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần, Ấn bản lần thứ năm DSM-5 Bệnh nhân có các giai đoạn kéo dài hoặc tái phát giải thể nhân cách, tri giác thai thực tại, hoặc cả nhân biết rằng những trải nghiệm phân ly của họ là không có thực nghĩa là họ vẫn có một cảm giác về thực tế nguyên vẹn.Các triệu chứng gây ra tình trạng đau khổ đáng kể hoặc làm suy giảm đáng kể chức năng xã hội hoặc nghề ra, các triệu chứng không thể giải thích hợp lý hơn bởi rối loạn tâm thần hoặc bệnh lý khác ví dụ, co giật, đang lạm dụng chất gây nghiện, rối loạn hoảng sợ, rối loạn trầm cảm chủ yếu, rối loạn phân ly khác.MRI và điện não đồ được thực hiện để loại trừ nguyên nhân cấu trúc, đặc biệt nếu triệu chứng hoặc tiến triển là không điển hình ví dụ, nếu các triệu chứng bắt đầu sau 40 tuổi. Xét nghiệm độc tính trong nước tiểu cũng có thể được chỉ kiểm tra tâm lý, các buổi phỏng vấn có cấu trúc và các bộ câu hỏi đặc biệt rất có hữu ích. Các bệnh nhân với rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại thường cải thiện mà không cần can thiệp. Việc hồi phục hoàn toàn thì khả dĩ đối với nhiều bệnh nhân, đặc biệt là nếu các triệu chứng là kết quả của những căng thẳng điều trị được hoặc thoáng qua hoặc không kéo dài. Ở những người khác, giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại trở thành mạn tính và kháng chí các triệu chứng giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại kéo dài hoặc tái phát chỉ gây suy giảm ở mức độ tối thiểu nếu bệnh nhân có thể tách bản thân họ khỏi những cảm giác chủ quan bằng việc giữ cho tâm trí họ luôn bận rộn và tập trung vào các suy nghĩ và hoạt động khác. Một số bệnh nhân trở nên tàn tật do cảm giác xa lánh mạn tính, do có lo âu hoặc trầm cảm kèm theo hoặc cả hai. Tâm lý trị liệuViệc điều trị chứng rối loạn giải thể nhân cách/tri giác sai thực tại phải tìm ra tất cả những căng thẳng liên quan tới việc khởi phát rối loạn bệnh cũng như các căng thẳng sớm trong đời ví dụ, lạm dụng trẻ hoặc bỏ bê, vốn là những căng thẳng dẫn đến làm bệnh nhân bị rối loạn giải thể nhân cách và/hoặc tri giác sai thực tại khởi phát liệu pháp tâm lý khác nhau ví dụ, liệu pháp tâm lý động, liệu pháp nhận thức-hành vi tỏ ra thành công đối với nhiều bệnh nhân Kỹ thuật nhận thức có thể giúp chặn các suy nghĩ ám ảnh về trạng thái không thuật hành vi có thể giúp bệnh nhân tham gia vào các nhiệm vụ làm họ tách khỏi giải thể nhân cách và tri giác sai thực thuật tiếp đất sử dụng 5 giác quan ví dụ, bằng cách chơi nhạc lớn hoặc đặt một miếng băng trong tay để giúp bệnh nhân cảm thấy kết nối hơn với bản thân và thế giới và cảm thấy thực hơn trong những thời khắc pháp tâm động giúp bệnh nhân đối phó với những cảm xúc tiêu cực, những mâu thuẫn bên dưới, hoặc những trải nghiệm mà gây ra tình trạng không thể dung nạp với bản thân và từ đó bị phân dõi thời điểm và ghi nhãn tác động và phân ly trong các buổi trị liệu có hiệu quả tốt cho một số bệnh nhân. Nhiều loại thuốc đã được sử dụng, nhưng không thuốc nào có thể chứng minh hiệu quả rõ ràng. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có thể được trợ giúp với thuốc ức chế chọn lọc trên serotonin SSRI Các thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin SSRI Một số loại thuốc và thuốc có thể được sử dụng để điều trị trầm cảm Chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc SSRI Thuốc điều hòa serotonin thuốc chẹn 5-HT2 Ức chế tái hấp thu Serotonin-norepinephrine... đọc thêm , lamotrigin, thuốc đối kháng opioid, thuốc giải lo âu và thuốc kích thích. Tuy nhiên, các loại thuốc này có thể hoạt động chủ yếu bằng cách nhắm vào các rối loạn tâm thần khác ví dụ, lo lắng Tổng quan các rối loạn lo âu Mỗi người thường trải qua nỗi sợ hãi và lo âu. Sợ hãi là phản ứng cảm xúc, thể chất và hành vi đối với một mối đe dọa có thể nhận biết được diễn ra tức thì từ bên ngoài ví dụ như kẻ đột nhập... đọc thêm , trầm cảm Tổng quan về Rối loạn khí sắc Các rối loạn khí sắc là các rối loạn cảm xúc bao gồm một quãng thời gian kéo dài buồn chán quá mức, vui quá mức, hoặc cả hai. Rối loạn khí sắc có thể xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên xem... đọc thêm thường kết hợp hoặc khởi phát bởi rối loạn giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền. Rối loạn dạng cơ thể là tình trạng rối loạn tâm thần dễ nhận thấy do người bệnh chú ý quá mức về các khuyết điểm liên quan đến ngoại hình. Bệnh kéo dài có thể gây các biến chứng nghiêm trọng, do đó cần được điều trị sớm để giảm thiểu nguy cơ. Rối loạn dị dạng cơ thể BDD là một rối loạn tâm thần dễ nhận thấy, trong đó một người bị bận tâm với một khiếm khuyết về thể chất không có thật hoặc một khiếm khuyết nhỏ mà những người khác không nhìn thấy. Do đó, những người mắc chứng rối loạn này tự coi mình là "xấu xí" và thường tránh tiếp xúc với xã hội hoặc chuyển sang phẫu thuật thẩm mỹ để cố gắng cải thiện ngoại có nhiều đặc tính giống rối loạn ăn uống và rối loạn ám ảnh cưỡng chế. BDD giống với rối loạn ăn uống ở chỗ cả 2 đều liên quan đến thay đổi về ngoại hình. Tuy nhiên, hai bệnh này khác nhau ở chỗ người mắc chứng rối loạn ăn uống thường xuyên lo lắng về cân nặng và ngoại hình trên toàn cơ thể, trong khi người bị BDD lại chú ý đến một bộ phận cụ thể trên cơ người mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế OCD có những suy nghĩ, nỗi sợ hãi hoặc hình ảnh nỗi ám ảnh lặp đi lặp lại mà họ không thể kiểm soát. Sự lo lắng hồi hộp được tạo ra bởi những suy nghĩ này dẫn đến việc hình thành một số thói quen nhất định. Với BDD, khi một người bận tâm đến khuyết điểm của mình sẽ dẫn đến xuất hiện một số hành vi như liên tục nhìn vào gương hoặc ngoáy vào da. Người bị BDD cuối cùng sẽ trở nên bị ám ảnh bởi những khiếm khuyết mà xã hội, công việc và gia đình gán là một rối loạn mãn tính không phụ thuộc vào tuổi tác. Bệnh thường bắt đầu sớm ở tuổi thiếu niên hoặc vị thành vấn đề về ngoại hình mà người bị BDD quan tâm nhất bao gồmLàn da Bao gồm nếp nhăn, sẹo, mụn trứng cáTóc Bao gồm ngọn tóc, thân tóc hoặc không có điểm khuôn mặt Chủ yếu là liên quan đến mũi, nhưng cũng có thể liên quan đến các vị trí lượng cơ thể Người mắc bệnh có thể bị ám ảnh về trọng lượng hoặc trương lực thước của dương vật, cơ bắp, vú, đùi, môngMùi cơ thể Rối loạn dạng cơ thể là một dạng rối loạn tâm thần thường gặp 2. Nguyên nhân gây rối loạn dạng cơ thể Nguyên nhân chính xác của BDD chưa được xác định rõ. Về lý thuyết, rối loạn liên quan đến một vấn đề về kích thước hoặc chức năng của một số vùng xử lý thông tin của não về ngoại hình. Trên thực tế, rối loạn dạng cơ thể xảy ra ở những người bị rối loạn tâm thần khác như trầm cảm, lo yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến sự phát triển hoặc kích hoạt BDD bao gồmĐã trải qua nhiều sự kiện đau thương hoặc xung đột cảm xúc trong thời thơ ấuLòng tự trọng thấpNhận nhiều lời chỉ trích từ cha mẹ hoặc những người xung quanhÁp lực từ môi trường sống coi trọng ngoại hình 3. Triệu chứng của rối loạn dạng cơ thể Một số dấu hiệu cảnh báo rối loạn dạng cơ thể BDD bao gồmThực hiện các hành vi lặp đi lặp lại và tốn thời gian như nhìn vào gương, tự lột da và cố gắng che đậy khuyết điểm hình thứcThường xuyên đặt câu hỏi với người khác về khuyết điểm bạn đang chú ý đếnLặp đi lặp lại việc chạm vào khiếm khuyết hình thứcXảy ra các vấn đề tại nơi làm việc, trường học hoặc trong các mối quan hệ do không thể ngừng tập trung vào khiếm khuyết hình thứcCảm thấy tự ti và không muốn ra ngoài nơi công cộng, hoặc cảm thấy lo lắng khi xung quanh có nhiều ngườiTư vấn nhiều lần với các chuyên gia y tế, chẳng hạn như bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ hoặc bác sĩ da liễu, để tìm cách cải thiện ngoại hình của mình 4. Các yếu tố nguy cơ Rối loạn dạng cơ thể thường bắt đầu trong những năm đầu tuổi thiếu niên và nó ảnh hưởng đến cả nam và số yếu tố làm tăng nguy cơ phát triển hoặc kích hoạt rối loạn dạng cơ thể, bao gồmCó họ hàng ruột thịt mắc rối loạn dạng cơ thể hoặc rối loạn ám ảnh cưỡng chếTrải nghiệm cuộc sống tiêu cực như bị trêu chọc thời thơ ấu, bỏ bê hoặc lạm dụngĐặc điểm về tính cách như chủ nghĩa hoàn hảoÁp lực xã hội hoặc cầu toàn về sắc đẹpĐang gặp phải các vấn đề tâm thần khác như lo lắng hoặc trầm cảm Những áp lực, cầu toàn về sắc đẹp dễ mắc bệnh rối loạn dạng cơ thể 5. Biến chứng Các biến chứng có thể được gây ra bởi hoặc liên quan đến rối loạn dạng cơ thể bao gồmTrầm cảm hoặc các rối loạn tâm thần khácSuy nghĩ hoặc có hành vi tự sátRối loạn lo âu, bao gồm rối loạn lo âu xã hội ám ảnh sợ xã hộiRối loạn ám ảnh cưỡng chếRối loạn ăn uốngLạm dụngVấn đề sức khỏe từ các hành vi như tự lột daĐau đớn về thể xác hoặc nguy cơ biến dạng do can thiệp phẫu thuật nhiều lần 6. Phòng ngừa Các biện pháp phòng ngừa rối loạn dạng cơ thể không được xác định rõ. Tuy nhiên, vì rối loạn dạng cơ thể thường bắt đầu trong những năm đầu tuổi thiếu niên nên việc xác định sớm và bắt đầu điều trị có thể có ích. Điều trị duy trì và lâu dài cũng có thể giúp ngăn ngừa rối loạn dạng cơ thể tái phát. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Bài viết tham khảo nguồn XEM THÊM Rối loạn vận mạch, rối loạn dạng cơ thể điều trị như thế nào? Vì sao bạn khó tập trung? Ám ảnh về sự sạch sẽ có phải là bệnh? Hệ thống nội tiết đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nhiều bộ phận trong cơ thể hoạt động đúng chức năng. Những rối loạn nội tiết sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến sự cân bằng toàn hệ thống. Hệ thống nội tiết là một mạng lưới các tuyến sản xuất và giải phóng các hormone giúp kiểm soát nhiều chức năng quan trọng của cơ thể, bao gồm cung cấp năng lượng cho các tế bào và các cơ quan. Hệ thống nội tiết ảnh hưởng đến tim, xương và các mô phát triển, khả năng sinh sản, nguy cơ phát triển bệnh tiểu đường, bệnh tuyến giáp, rối loạn tăng trưởng, rối loạn chức năng tình dục và một loạt các rối loạn liên quan đến hormone nhân gây ra rối loạn nội tiết thường được nhóm thành hai loạiDo bệnh nội tiết gây ra khi một tuyến sản xuất quá nhiều hoặc quá ít hormone nội tiết, được gọi là mất cân bằng nội tiết do sự phát triển của các tổn thương như nốt hoặc khối u trong hệ thống nội tiết, có thể có hoặc không ảnh hưởng đến mức độ thống phản hồi của nội tiết giúp kiểm soát sự cân bằng của các hormone trong máu. Nếu cơ thể bạn có quá nhiều hoặc quá ít một loại hormone nhất định, hệ thống phản hồi sẽ báo hiệu cho tuyến hoặc tuyến thích hợp để khắc phục vấn cân bằng nội tiết tố có thể xảy ra nếu hệ thống phản hồi này gặp khó khăn trong việc giữ đúng mức độ hormone trong máu hoặc nếu cơ thể không loại bỏ chúng ra khỏi máu một cách hợp hoặc giảm mức độ hormone nội tiết có thể được gây ra bởiMột vấn đề với hệ thống phản hồi nội tiết dịch bệnhSuy giảm của một tuyến để kích thích một tuyến khác giải phóng hormone ví dụ, một vấn đề với vùng dưới đồi có thể làm gián đoạn sản xuất hormone trong tuyến yên. Tuyến yên Một rối loạn di truyền, chẳng hạn như đa nhân nội tiết MEN hoặc suy giáp bẩm nhiễm trùngTổn thương một tuyến nội tiết khối u của một tuyến nội hết các khối u nội tiết và nốt khối u là không ung thư. Chúng thường không lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Tuy nhiên, một khối u hoặc nốt sần trên tuyến có thể cản trở sản xuất hormone của tuyến. 2. Các loại rối loạn nội tiết Có nhiều loại rối loạn nội tiết khác nhau. Bệnh tiểu đường là rối loạn nội tiết phổ biến nhất được chẩn đoán. Các rối loạn nội tiết khác bao gồmSuy thượng thận Tuyến thượng thận tiết ra quá ít hormone cortisol và đôi khi, aldosterone. Các triệu chứng bao gồm mệt mỏi, đau dạ dày, mất nước và thay đổi da. Bệnh Addison là một loại suy thượng thận. Việc sản xuất quá nhiều hormone tuyến yên dẫn đến tuyến thượng thận hoạt động quá Cushing Bệnh Cushing. Việc sản xuất quá nhiều hormone tuyến yên dẫn đến tuyến thượng thận hoạt động quá mức. Một tình trạng tương tự được gọi là hội chứng Cushing có thể xảy ra ở những người, đặc biệt là trẻ em, những người dùng thuốcGigantism acromegaly và các vấn đề hormone tăng trưởng khác Nếu tuyến yên sản xuất quá nhiều hormone tăng trưởng, xương và các bộ phận cơ thể của trẻ có thể phát triển nhanh bất thường. Nếu nồng độ hormone tăng trưởng quá thấp, một đứa trẻ có thể ngừng tăng trưởng chiều cường giáp Tuyến giáp sản xuất quá nhiều hormone tuyến giáp, dẫn đến giảm cân, nhịp tim nhanh, đổ mồ hôi và hồi hộp. Nguyên nhân phổ biến nhất cho tuyến giáp hoạt động quá mức là một rối loạn tự miễn dịch gọi là bệnh giáp Tuyến giáp không sản xuất đủ hormon tuyến giáp, dẫn đến mệt mỏi, táo bón, khô da và trầm cảm. Tuyến giáp kém hoạt động có thể gây ra sự phát triển chậm ở trẻ em. Một số loại suy giáp có mặt khi tuyến yên. Tuyến yên tiết ra ít hoặc không có hormone. Nó có thể được gây ra bởi một số bệnh khác tân sinh nội tiết I và II MEN I và MEN II Những điều kiện di truyền hiếm gặp này được truyền qua các gia đình. Chúng gây ra các khối u của tuyến cận giáp, tuyến thượng thận và tuyến giáp, dẫn đến việc sản xuất quá nhiều hormone. Hội chứng buồng trứng đa nang PCOS. PCOS là nguyên nhân hàng đầu gây vô thì sớm Tuổi dậy thì sớm bất thường xảy ra khi các tuyến bảo cơ thể giải phóng hormone giới tính quá sớm trong cuộc sống. 3. Triệu chứng rối loạn nội tiết Khám bệnh sớm nhất để tìm ra triệu chứng rối loạn nội tiết Các triệu chứng của rối loạn nội tiết rất khác nhau và phụ thuộc vào tuyến cụ thể liên quan. Tuy nhiên, hầu hết những người mắc bệnh nội tiết đều than phiền về sự mệt mỏi và suy rối loạn nội tiết tố ở đâu an toàn, nhanh chóng và chính xác là vấn đề khiến không ít chị em đau đầu. Trước vô vàn các bệnh viện, phòng khám tư nhân thì cần tìm hiểu và lựa chọn cho mình cơ sở uy tín, có hệ thống trang thiết bị đồng bộ, đội ngũ bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên có tay nghề cao, giàu kinh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là cơ sở y tế không những đáp ứng đủ các yêu cầu này mà còn có ưu điểm vượt trội về chất lượng dịch vụ, chăm sóc bệnh nhân chuyên nghiệp, tận tâm, luôn nỗ lực vì mục tiêu đem đến sự hài lòng cao nhất cho khách hàng khi thăm khám tại Vinmec. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Bài viết tham khảo nguồn XEM THÊM Thuốc triamcinolone Những điều cần biết Khi nào nên tiêm trưởng thành phổi ở phụ nữ mang thai? Công dụng thuốc Hydrocortisone 10mg

rối loạn cơ thể